Soạn văn

Soạn bài những câu hát châm biếm

Bài tập làm văn soạn bài những câu hát châm biếm ngữ văn 7 ngắn gọn được sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo để hiểu rõ về ý nghĩa, giá trị nghệ thuật của những câu hát châm biếm trong dân gian để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình.

Soạn bài những câu hát châm biếm
Soạn bài những câu hát châm biếm

Soạn bài những câu hát châm biếm

Btlv soạn bài những câu hát châm biếm 1

Câu 1:

Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như : hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ông chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm.

– Chân dung của chú tôi:

  • Là người nát rượu nghiện ngập (“hay tửu hay tăm”)
  • Là người thích hưởng thụ ăn chơi (“hay chè đặc, hay ngủ trưa”)
  • Là người lười biếng lao động (“ước ngày mưa, ước đêm thừa”)

=> Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm…

– Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt.

– Ý nghĩa hai dòng đầu:

  • Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp.
  • Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ.

Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy => Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.

– Đối tượng châm biếm. Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có.

Câu 2:

Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn “nói dựa” – thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.

Câu 3:

– Ý nghĩa tượng trưng của các con vật: Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa.

  • Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.
  • Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường

-> đến đám ma ngồi uống rượu say sưa.

  • Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như: cai lệ, lính lệ – kiếm chác chia phần.
  • Chim chích là anh mõ đi rao việc làng.

– Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai:

  • Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.
  • Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai.
  • Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo.

– Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao.

  • Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang – chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám.
  • Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối.

– Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.

Câu 4:

Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai “dấu hiệu” nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng “cậu cai” đi, trong hình dung chỉ còn chiếc “nón dấu lông gà” (quyền lực) và “ngón tay đeo nhẫn” (khoe của) có vẻ rất trai lơ!

Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.

Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.

Btlv soạn bài những câu hát châm biếm 2

I. Hướng dẫn soạn bài những câu hát châm biếm

Câu 1

– Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như:
hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ôn chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm.

– Chân dung của chú tôi

  • Là người nát rượu nghiện ngập – > hay tửu hay tăm
  • Là người thích hưởng thụ ăn chơi – > hay chè đặc, hay ngủ trưa
  • Là người lười biếng lao động – > ước ngày mưa, ước đêm thừa

= > Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm… – Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt.

– Ý nghĩa hai dòng đầu.

  • Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp.
  • Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ.

Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy = > Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.

– Đối tượng châm biếm.

Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có.

Câu 2

– Lời người nói : Bài ca dao này nhại lời của người thầy bói nói với một cô gái (số cô chẳng giàu) đi xem bói.

– Nhận xét về lời thầy bói :

  • Mong muốn của người đi xem bói là muốn biết những gì sẽ đến với mình trong tương lai thế nhưng lời thầy bói ở đây toàn là những điều hiển nhiên, ai cũng thừa sức biết : có mẹ, có cha, mẹ đàn bà, cha đàn ông.
  • Hai nữa là toàn là những lời nói ngược như : chẳng giàu thì nghèo, chẳng gái thì trai…

– Ý nghĩa phê phán :

  • Phê phán những thầy bói chuyên lừa lọc người khác để kiếm tiền, trục lợi.
  • Cảnh tình những người mê tín dị đoan, thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin, mất tiền cho kẻ khác một cách vô ích.

– Những bài ca dao có nội dung tương tự :

’’Đom đóm đầy ngỡ là ma
Thầy bỏ thầy chạy
Rơi khăn rơi dãy
Rơi cả cục xôi
Thầy ngồi thầy réo
Ma bắt thầy đi’’

(Có thể đọc thêm ở trang 53 SGK)

Câu 3

– Ý nghĩa tượng trưng của các con vật :

Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa.

  • Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.
  • Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường – > đến đám ma ngồi uống rượu say sưa.
  • Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như : cai lệ, lính lệ – kiếm chác chia phần.
  • Chim chích là anh mõ đi rao việc làng.

– Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai :

  • Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.
  • Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai.
  • Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo.

– Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao.

  • Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang  – chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám.
  • Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối.

– Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.

Câu 4

– Chân dung cậu cai.

+ Vẻ bên ngoài :

Cai tức là cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến ; cậu – cách gọi người còn trẻ và có ý mỉa mai.

Đầu đội nón dấu lông gà – dấu hiệu của con người có quyền hành.

Ngón tay đeo nhẫn – dấu hiệu chứng tỏ sự giàu sang thích khoe khoang, tính cách của người thiếu đứng đắn.

+ Thực chất bên trong :

Một người có quyền lực như cậu mà ba năm mới có một chuyến sai, ba năm mới được một lần ra oai – quá ít ỏi.

Giàu sang thế mà áo lẫn quần đền không có phải đi mượn đi thuê = > Như vậy ở hai câu sau tất cả cái giàu sang, cái oai vệ của cậu cai đã phơi bày thực chất hết sức thảm hại đáng thương. Cái vỏ bên ngoài của cậu là căn nguyên của sự sĩ diện, thích khoe khoang mà thôi.

– Nghệ thuật châm biếm :

  • Miêu tả có tính chất điểm xuyết.
  • Nghệ thuật phóng đại

Ba năm được một chuyến sai

Áo mượn, quần thuê.

II. Luyện tập

Câu 1

Nhận xét về sự giống nhau của 4 bài ca dao trong văn bản. Cả 4 ý kiến nêu dưới đây đều đúng :

Hướng dẫn :

– Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng.
– Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại.
– Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.
– Nghệ thuật tả  thực có trong cả 4 bài.

Câu 2

Những câu hát châm biếm trên có đặc điểm gì giống với truyện cười dân gian.

– Giống về nội dung : Tập trung phê phán chế giễu các thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.
– Giống về mặt hình thức : Dùng phương pháp nói ngược hay cường điệu phóng đại.

= > Ca dao châm biếm và truyện cười dân gian có những nét gần gũi với nhau.

Trên đây là bài tập làm văn soạn bài những câu hát châm biếm, chúc các bạn làm tốt bài văn của mình!

Nguyễn Văn Vinh

Chào tất cả các bạn! Mình là Nguyễn Văn Vinh – làm việc tại trung tâm giáo dục BÀI TẬP LÀM VĂN. Rất mong được các bạn ủng hộ!

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button