Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ rằm tháng giêng
Bài tập làm văn phát biểu cảm nghĩ về bài thơ rằm tháng giêng lớp 7bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu tuyển chọn hay nhất để giới thiệu cho các bạn tham khảo, từ đó làm tốt bài văn phát biểu cảm nghĩ của mình.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ rằm tháng giêng
Dàn ý phát biểu cảm nghĩ về bài thơ rằm tháng giêng
a. Mở bài:
– Giới thiệu những hiểu biết về Bác Hồ (là một vị lãnh tụ, nhà thơ, nhà thi sĩ,….)
– Giới thiệu bài thơ “Rằm tháng giêng” và cảm nghĩ của em về bài thơ.
b. Thân bài :
– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
– Thời gian và không gian trong 2 câu thơ đầu tràn ngập vẻ đẹp và sức xuân.
– Rằm xuân -> mặt trăng tròn đầy, ánh trăng bao trùm vạn vật trong đêm nguyên tiêu -> có cảm giác ánh trăng chưa bao giờ đẹp và tròn như thế
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
– Dưới ánh trăng, điệp từ “xuân” gợi hình ảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống của mùa xuân : cây cối, sông nước, bầu trời, mây gió,… trong đêm rằm đầu năm .
– Cảnh vừa có chiều cao của ánh trăng vừa có chiều rộng của sông nước ” tiếp” giáp với bầu trời -> tạo ra không gian bao la vô tận – 2 câu thơ không tả mà giàu sức gợi hình ảnh, gợi màu sắc dù nó là bức tranh về cảnh khuya có 2 gam màu trắng và đen, sáng tối -> người đọc thích thú khi hình dung cảnh đêm xuân đẹp bao nhiêu thì càng cảm phục cái tài thơ của Bác bấy nhiêu …
Giữa dòng bàn bạc việc quân
– Chuyển ý
– Trong khung cảnh nên thơ ấy, giữa nơi mịt mù khói sóng Bác Hồ đang làm gì ? Ánh trăng tuyệt đẹp kia không thể làm Bác xao lãng việc nước, việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
– Khuya rồi vậy mà trăng vẫn “mãn thuyền” vẫn ngân nga đầy thuyền, trăng tràn ngập khắp nơi, tràn cả không gian rộng lớn, vẫn chờ, vẫn đợi cho dù Bác có bận đến đâu – Thuyền lờ lững xuôi dòng trong đêm co trăng đồng hành như một người bạn chung thủy sâu sắc -> thật hạnh phúc
– Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết thưởng lãm, biết trân trọng vẻ đẹp của trăng – Trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn gian khổ, ta vẫn cảm nhận sự hòa hợp kì diệu giữa cảnh và người -> thể hiện phong thái ung dung, tinh thần lạc quan của Bác về tương lai đât nước tươi sáng -> kính yêu Bác hơn
c. Kết bài :
Bài thơ “Rằm tháng giêng” giúp em hình dung một cách cụ thể bức tranh đêm trăng trên sông nước thật đẹp, hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu của dân tộc
Một số bài văn mẫu phát biểu cảm nghĩ về bài thơ rằm tháng giêng
Bài văn mẫu số 1
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng Giêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Rằm tháng Giêng năm 1948, trên chiếc thuyền neo đậu giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng vfa Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Cuộc họp tan thì đêm đã khuya. Trăng rằm tỏa sáng khắp mặt đất bao la. Cảnh sông núi trong đêm càng trở nên đẹp đẽ và thơ mộng. Cảm hứng dâng cao, Bác đã ứng khẩu làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa là Nguyên tiêu:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân sang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy dịch bài thơ ra tiếng Việt dưới thể lục bát, với tên là Rằm thángGiêng. Bản dịch giữ được gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ.
Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác tả cảnh trăng đẹp chốn rừng sâu thì ở bài này, Bác tả cảnh trăng trên sông nước:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng bát ngát khắp bầu trời, mặt đất trong đêm Nguyên tiêu. Khung cảnh mênh mông, tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời: Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Vạn vật ăm ắp sức xuân: sông xuân, nước xuân và trời xuân nối tiếp, giao hòa, tạo nên một vũ trụ căng đầy sức sống, làm náo nức lòng người. Điệp từ xuân được lặp lại nhiều lần với ý tạo vật cùng lòng người đều phơi phới khí thế tươi vui.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Trên một chiếc thuyền thu nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng (yên ba thâm xứ), Bác cùng Chính phủ và Trung ương Đảng luận bàn việc quân, việc nước. Công việc trọng đại đến chừng nào, nhất là trong hoàn cảnh buổi đầu kháng chiến đầy thiếu thốn, gian khổ. Tuy vậy, gian khổ không làm vơi đi cảm xúc, thi hứng trong lòng Bác. Buổi họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Trăng tròn vành vạnh treo giữa trời (nguyệt chính viên) đang tỏa sáng. Cảnh sông nước trong đêm lại càng thêm thơ mộng. Dòng sông trở thành dòng sông tẳng và con thuyền cũng dường như trở đầy ắp ánh tẳng (trăng ngân đầy thuyền). Trước đêm trăng đẹp, tâm hồn Bác lâng lâng. Bác thả hồn hòa nhập với thiên nhiên mà Bác vốn coi là một người bạn tri âm, tri kỉ. Trong lòng Bác dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi của Cách mạng, của kháng chiến. Hình ảnh con thuyền trở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình ảnh lãng mạn có ya nghĩa tượng trưng sâu sắc. Phải có một phong thái ung dung tự tại vfa niềm lạc quan mãnh liệt vào tương lai thì nhà thơ mới sáng tạo ra được hình tượng nghệ thuật độc đáo trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bài thơ Rằm tháng Giêng với âm hưởng khỏe khoắn, tươi vui đã đem lại cho người đọc cảm xúc thanh cao, trong sáng. Bài thơ là dẫn chứng tiêu biểu chứng minh BácHồ vừa là một lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ có trawis tim vô cùng nhạy cảm.
Bài văn mẫu số 2
Rằm tháng Giêng là một trong bài thơ hay và đặc sắc nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh được viết năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1948). Giữa cảnh núi rừng về đêm, những người chiến sĩ dường như đã trở nên mỏi mệt, Bác đã tả cảnh đẹp bao la ấy bằng những tình yêu nước tha thiết của Bác ở ngay trong rằm tháng Giêng:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Giữa núi rừng bao la, từ cảnh đẹp của chốn rừng xanh nước biếc, Bác đã có những vần thơ tả cảnh cảnh. Nếu như ở trong Cảnh khuya Bác làm bạn với ánh trăng, với non nước thì trong Rằm tháng Giêng, Bác lại được hòa mình vào chốn khung cảnh núi rừng:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Trong đêm Nguyên Tiêu, Bác đã khắc tả hình ảnh vầng trăng tròn đầy, lan tỏa ra khắp cánh rừng già, tưởng chừng đang ngủ quên thì bây giờ lại như bừng tỉnh giấc bởi vầng trăng già. Sông xuân nước biếc, cảnh rừng già đang từng thức giấc, một bầu trời xuân, một dòng sông xnah, cánh rừng già không chỉ mang một màu u ám, mà ngược lại, cảnh sắc khung trời của mùa xuân đã tô điểm thêm cho màu trời, màu xủa trời xuân, tạo nên một mối quan hệ làm nao nức lòng người giữa con người và cảnh vật thiên nhiên nơi đây, đây không chỉ là sự tương tác giữa người với thiên nhiên mà bây giờ, con người với thiên nhiên đang hòa làm một. Điệp từ xuân đã được tác giả nhấn mạnh để có thể làm lên dụng ý của tác giả. Nhưng dù cảnh có đẹp đến đâu, thì Bác vẫn không thể nào quên được việc nước, việc quân – đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn Dân:
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Chỉ trên một con thuyền nhỏ, nhưng lại chứa nhiều việc lớn, Bác cùng với Chính phủ và Trung ương Đảng đã bàn luận việc nước, việc quân, dù còn nhiều khó khăn, gian khổ nhưng những con người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, đơn sơ ấy vẫn đang giữ vừng niềm tin, niềm tin vào một con đường, một lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Buổi họp được kết thúc vào lúc nửa đêm, tâm hồn của Bác và các những chiến sỹ lại hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho dòng sông và con thuyền được chở đầy ánh trăng, phải chăng tâm hồn những người chiến sĩ, những người con của đất nước cũng đang được ánh trăng lấp đầy. Phải chăng người bạn tri kỷ của Bác – ánh trăng lại luôn nhớ về người bạn tri âm tri kỷ của mình. Trăng luôn đồng hành với Bác, không chỉ trong những cảnh đêm thanh vắng, những đêm Bác mất ngủ mà trăng còn luôn đồng hành khi Bác ở trong tù – một nơi lạnh lẽo và cũng rất đơn độc.
Nhưng với phong thái của một người chiến sĩ cách mạng và một tâm hồn phong phú, ung dung tụ tại, hình ảnh ánh trăng, những hình ảnh, những lỗi lo lắng của Bác như đã được hòa quyện vào nhau. Trái tim của người nghệ sĩ, người chiến sĩ cách mạng như đã bị rung động, đã bị thu hút bởi cảnh sắc thiên nhiên của nơi đây, một nơi thấm đậm tình cảm và tình yêu quê hương đất nước phong phú.
Bài thơ kép lại nhưng những âm hưởng tươi mới, tâm hồn yêu cái đẹp và muốn hưởng thụ cái đẹp của thiên nhiên, để con người có thể đắm mình trong những vẻ đẹp ngây ngất thì sẽ còn mãi – một vẻ đẹp thanh cao, một trái tim luôn thấm đượm tình yêu quê hương, đất nước.
Bài văn mẫu số 3
“Rằm tháng giêng” là một trong những bài thơ hay nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được Người sáng tác ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã để lại trong em nhiều ấn tượng đẹp đẽ về khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc cũng như tâm hồn, tình cảm của Người.
Đọc bài thơ, trước hết em vô cùng thích thú vì được chiêm ngưỡng khung cảnh đêm rằm tháng giêng trên sông qua ngòi bút tài hoa của Hồ Chí Minh:
“ Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân rhuỷ tiếp xuân thiên”
( Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân)
Câu mở đầu bài thơ đã khắc hoạ cảnh đêm rằm thật đẹp. Ba chữ: “ Nguyệt chính viên” giúp em hình dung một khung cảnh tràn ngập ánh trăng, trên bầu trời vầng trăng đang độ tròn nhất, sáng nhất. Thật tiếc, bản dịch thơ của Xuân Thuỷ mới chỉ gợi tả được một không gian chan chứa ánh trăng chứ chưa gợi tả hết được vẻ tròn đầy, sáng trong của vầng trăng đêm rằm. Không chỉ vẽ ra trước mắt người đọc cảnh đêm trăng huyền ảo, Hồ Chí Minh còn vẽ ra trước mắt ta một không gian đầy ắp sắc xuân qua câu thơ:
“ Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”
Các hình ảnh: “ Xuân giang” “ Xuân thuỷ” “ Xuân thiên” được đặt liền nhau gợi một không gian vừa cao, vừa xa, vừa rộng làm em có cảm giác dòng sông, mặt nước như tiếp liền bầu trời. Từ “Xuân” lặp lại ba lần trong cùng một dòng thơ gợi sức sống mùa xuân tràn ngập không gian, đầy ắp vũ trụ. Cảnh vừa thực lại vừa hư ảo làm em càng thấy say mê, thích thú. Nhưng thật tiếc làm sao! Lại một lần nữa, câu thơ dịch của Xuân Thuỷ đã bỏ bớt đi một từ: “ Xuân”nên phần nào làm giảm đi vẻ đẹp của câu thơ trong nguyên tác.
Đọc hai câu thơ đầu bài thơ: “Rằm tháng giêng” em chợt nhớ đến hai câu thơ trong bài : “ Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh :
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
( Cảnh khuya)
Cũng vẫn là cảnh đêm trăng song mỗi bài mang một vẻ đẹp riêng. ở bài: “ Cảnh khuya” là cảnh trăng trên rừng có âm thanh trong trẻo, vang xa của tiếng suối, có bóng trăng đan cài vào bóng cây, bóng hoa tạo thành một bức tranh nhiều tầng lớp, đường nét. Còn ở bài: “Rằm tháng giêng” là cảnh đêm trăng nơi sông nước với không gian bát ngát khí xuân và lai láng ánh trăng. Cả hai bài thơ đều là những bức hoạ tài tình dưới ngòi bút tài hoa của Bác, đem đến cho em nhiều rung cảm sâu xa.
Em yêu thích bài thơ: “Rằm tháng giêng” không chỉ vì bài thơ tái hiện một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp làm mê luyến lòng người mà qua bài thơ em càng hiểu rõ hơn về tâm hồn tình cảm cao đẹp của Bác. Thấp thoáng trong bài thơ là hình ảnh một vị lãnh tụ luôn trăn trở cho vận mệnh nước nhà:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự”
( Giữa dòng bàn bạc việc quân)
Trước mắt em hiện ra hình ảnh một chiếc thuyền đang bồng bềnh giữa sông nước mịt mờ khói sóng . Trên thuyền, Bác và các cán bộ đang bàn bạc những công việc liên quan đến vận mệnh đất nước và đường lối kháng chiến. Đọc tới đây, em bỗng nhớ tới câu thơ của nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường( Trung Quốc):
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
Người xưa nhìn thấy khói sóng thì cảm thấy buồn, sầu, trống vắng, cô đơn còn Bác, ở nơi khói sóng, Người đang thao thức lo “nỗi nước nhà”. Nỗi niềm lo lắng cho dân cho nước ấy của Bác khiến em vô cùng xúc động, em lại càng thêm kính trọng và biết ơn Người.
Bên cạnh đó, em cũng đồng cảm với tình yêu thiên nhiên và khâm phục phong thái ung dung, lạc quan của Bác. Mặc dù cuộc kháng chiến còn nhiều khó khăn, gian khổ, mặc dù bận bịu biết bao công việc của đất nước vậy mà Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và sáng tạo nên những dòng thơ đầy thi vị:
“ Dạ bán qui lai nguyệt mãn thuyền”
( Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Hình ảnh: “ Nguyệt mãn thuyền” là hình ảnh đẹp đầy lãng mạn, thể hiện trí tưởng tượng và liên tưởng vô cùng phong phú, độc đáo. Phải là một người có trái tim nhạy cảm, yêu thiên nhiên, có tâm hồn nghệ sĩ mới tạo nên hình ảnh thơ tuyệt đẹp đến thế! Đọc tới đây, em bỗng tưởng tượng ra hình ảnh một con thuyền ăm ắp ánh trăng đang nhẹ nhàng trôi trên dòng sông xuân. ánh trăng tràn ngập khoang thuyền làm em liên tưởng tới khoang thuyền đầy ắp những chiến công rực rỡ mà quân và dân ta vừa thu được trong chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông trước đó. Câu thơ đẹp và phơi phới niềm vui, niềm lạc quan bất tận khiến em càng đọc càng cảm thấy say mê và cảm phục Bác. Em lại nhớ tới câu thơ của nhà thơ Trương Kế:
“ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
( Nửa đêm tiếng chuông chùa văng vẳng đến thuyền khách)
( Phong kiều dạ bạc- Trương Kế)
Con thuyền của nhà thơ Trương Kế dừng lại trên bến, hoàn toàn im ắng, tĩnh lặng trong màn sương khuya và ánh trăng tàn. Cảnh vật đượm nỗi u buồn. Hình ảnh con người khuất lẫn trong không gian mênh mang với nỗi buồn vương vấn. Còn con thuyền của Bác, trong mịt mù khói sóng vẫn dào dạt niềm vui, niềm tin vào sự thắng lợi của Cách mạng. Hình ảnh thơ đầy sáng tạo đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn Bác: yêu thiên nhiên hòa quện với lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng. Đó cũng là sự kết hợp hài hòa giữa tâm hồn nghệ sĩ với phẩm chất người chiến sĩ.
Yêu thích nội dung bài thơ “Rằm tháng giêng” bao nhiêu em lại càng ngưỡng mộ tài năng nghệ thuật của Bác được thể hiện trong bài bấy nhiêu. “Rằm tháng giêng” là bài thơ tiểu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Một phong cách độc đáo bởi có sự kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại. Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, bút pháp miêu tả cổ điển và những thi liệu cổ, bài thơ không chỉ tái hiện một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, phảng phất hương vị Đường thi mà còn gửi gắm tâm hồn, tình cảm, phong thái của người Cách mạng.
Bài thơ đã khép lại song dư âm bài thơ như vẫn văng vẳng trong em. Đọc bài thơ, em càng thấy yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, em càng thêm yêu quí và biết ơn Bác Hồ.
Bài văn mẫu số 4
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, người cũng là một thi nhân có tài. Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy phải bận bề trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn có thể sáng tác ra những vần thơ tuyện vời, trong đó có tuyện tác về cảnh trăng xuân: “Nguyên tiêu”:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Bài thơ được Bác sáng tác nguyên văn theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một thể thơ nổi tiếng của thời Đường ở Trung Quốc. Sau này bài thơ được nhà thơ Xuân Thủy dịch và mang tên là “Rằm tháng giêng”. Bài thơ được dịch theo thể thơ lục bát, vốn là thể thơ cổ truyền của dân tộc Việt Nam:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Song xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Mở đầu bài thơ là cảnh trăng xuân tuyện đẹp ở chiến khu Việt Bắc:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Song xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Hình ảnh “trăng” lại xuất hiện trong hai câu thơ này. Trăng là người bạn tri âm tri kỉ của Bác, vì thế, trăng trở đi trở lại trong thơ của Bác. Ngay cả trong ngục tù, hình ảnh “ánh trăng” vẫn được Bác sử dụng:
Trong tù không rượu củng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
( Ngắm trăng – Nhật kí trong tù )
Từ “xuân” được điệp lại hai lần để chỉ sự khì thế, vui tươi của mọi vật ở đây. Sông xuân, nước xuân, trời xuân và mọi vật đang hòa quyện vào nhau, cùng nhau căng tràn sức xuân. Một không gian bao lt, bát ngát tràn ngập ánh trăng và sức xuân.
Nếu ở hai câu đầu là cảnh thiên nhiên, cảnh trăng xuân ở chiến khu Việt Bắc thì ở hai câu thơ cuối, hình ảnh Bác Hồ hiện ra trong tư thế một người chiến sĩ bận lo việc nước, việc quân:
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Bác phải họp tổng kết việc kháng chiến trên dòng song trăng. Tuy là một cuộc họp quan trọng nhưng Bác vẫn không căng thẳng, vẫn ung dung, tự tại để cảm nhận nên cảnh trăng xuân tuyệt đẹp ở Việt Bắc vào đêm khuya:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Cuộc họp kết thúc vào lúc nửa đêm, khi về, chiếc thuyền nhỏ lướt nhẹ trên dòng song trăng, ánh trăng ngập tràn lòng thuyền. Một không gian bao la ngập tràn ánh trăng. Trước hoàn cảnh khó khăn như vậy mà Bác vẫn có thể sáng tác ra những vần thơ tuyệt cú như thế đủ để thấy phong thào ung dung, lạc quan của Bác.
Bài thơ vừa mang tính cổ điển, vừa mang tình thời đại, tính lịch sử. Tuy chỉ có bốn câu, mỗi câu bảy chữ nhưng bài thơ đã thể hiện hết tình cảm với thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng, phong thài ung dung, lạc quan, cốt cách thi sĩ lồng trong tâm thế chiến sĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.
Bài văn mẫu số 5
Mỗi dòng sông, ngon cỏ, nhành hoa, ánh trăng…gần gũi, mộc mạc đi vào thơ Hồ Chí Minh lại trở nên có hồn và ấm áp yêu thương. Đọc thơ Bác chúng ta yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu những gì bình dị nhất. Bài thơ “Rằm tháng giêng” ra đời trong một đêm trăng tháng Giêng, giữa khung cảnh trời mây hữu tình, nên thơ và trong không khí bàn việc quân căng thẳng. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra được chữ “tình” thật đầy, thật dạt dào qua từng câu thơ Người viết.
“Rằm tháng giêng” có tiếng Hán là “Nguyên tiêu” được Xuân Thủy dịch thành thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển. Có lẽ dịch giả Xuân Thủy đã khiến cho người đọc như đang ở trong khung cảnh lãng mạn giữa sông nước mênh mông tràn đầy ánh trăng đó. Không phải là ánh trăng của những ngày thường mà là ánh trăng ngày rằm tháng giêng, ánh trăng giữa không gian cuộc chiến tranh đang ác liệt.
Chỉ với 4 câu thơ lục bát, bằng nét bút tài tình Hồ CHí Minh đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh mùa xuân thật đẹp, thật trữ tình:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Đêm trăng rằm tháng giêng là đêm trăng thiêng liêng, đêm trăng đẹp nhất trong năm vì nó mang hơi thở và sức sống của mùa xuân tươi mới, ấm áp. Đọc câu thơ Bác, chúng ta như đang chìm đắm trong sắc xuân, khí xuân, vị xuân nồng nàn và tràn đầy sức sống nhất. Ánh trăng xuân ‘lồng lộng” mang vẻ đẹp hữu tình, lung linh, rực rỡ. Với cách đảo từ láy “lồng lộng” trên trước đã nhấn mạnh vẻ đẹp rạng ngờ của đêm trăng rằm tháng giêng. Phải thật khéo, thật tinh tế Hồ Chí Minh mới có thể nhận ra vẻ đẹp mê hồn đó.
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Một câu thơ làm toát lên được thần thái của mùa xuân, người đọc có cảm giác như mùa xuân và ánh trăng ngày xuân bao trùm lên nơi đây. Mùa xuân có sự nối tiếp từ đất đến nước và đến trời thật hữu tình. Đây là cách diễn tả từ gần đến xa rất có dụng ý của Hồ Chí Minh. Ánh trăng đêm rằm tháng giêng như dát xuống mặt sông một màu sắc lung linh, mơ hồ. Mùa xuân toát lên qua câu thơ của Hồ Chí Minh tràn đầy sức sống mãnh liệt nhưng cũng không kém phần thi vị, nên thơ. Ở câu thơ này, đường nét của mùa xuân hiện nên thật rõ ràng, không còn mơ hồ nữa. Thật vậy, thiên nhiên trong thơ Người luôn có thần thái, có linh hồn như vậy. Những cảnh vật gần gũi trong thơ Bác cũng khiến người ta phải ngỡ ngàng. Cách điệp từ ‘xuân” trong câu thơ tiếng Hán của người dường như đã nhấn mạnh thêm vẻ đẹp thi vị của mùa xuân. Tuy dịch giả không dịch được sát ý tứ thơ của Người nhưng đã phần nào thổi vào đó linh hồn của mùa xuân.
Hai câu thơ đầu tiên không hề xuất hiện hình ảnh con người, nhưng chuyển tiếp đến câu thơ thứ ba, người đọc nhận ra có sự hiển hiện của những con người, hay nói đúng hơn là hình ảnh của Bác:
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bat ngát trăng ngân đầy thuyền
Câu thơ đã tái hiện lại khung cảnh “bàn việc quân” ngay giữa dòng sông tràn ngập ánh trăng. Một khung cảnh hữu tình và một công việc liên quan đến vận mệnh của đất nước. Dường như có vẻ trái ngược nhau nhưng thực ra chính sự đối lập này đã làm nổi bật lên hình ảnh của những con người đang ngày đêm cống hiến cho đất nước. Ánh trăng ngày xuân dường như đá “tràn” vào khoang thuyền, nơi Bác đang “bàn việc”. Dịch giả đã dùng từ “trăng ngân đầy thuyền” đã diễn tả được thần thái và nên thơ của khung cảnh nơi đây. Ánh trăng trong thơ Bác như được đẩy đến đỉnh điểm, một mức mà có lẽ cái đẹp đã thoát tục.
Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang đàm quân sự. Ánh trăng đêm này là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu. Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ. Bác thưởng trăng trên khói sóng, người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các bậc tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là người đang hoạt động cách mạng với trọng trách nặng nề.
Đọc hai câu thơ cuối, người đọc lắng mình để cảm nhận về hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại. Dù việc quân bận rộn nhưng lòng bác luôn tràn đầy lòng yêu thiên nhiên, yêu sông núi Việt Nam. Những vần thơ chữ Hán của người khiến chúng ta liên tưởng đến thơ Đường của Trung Quốc, ý tại ngôn ngoại.
Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng) thực sự là áng thơ hay tuyệt bút về mùa về, về trăng xuân, về tình yêu nước và yêu thiên nhiên nồng nàn. Giọng thơ nhẹ nhàng, tứ thơ uyển chuyển đã mở ra trước mắt người đọc khung cảnh xuân nên thơ nhất.
Trên đây là bài tập làm văn phát biểu cảm nghĩ về bài thơ rằm tháng giêng, chúc các bạn làm tốt bài văn của mình!